Các dạng sống cá biệt hiển nhiên không quan trọng cho lắm trong cuộc chơi này. Trong bất cứ trường hợp nào, bản thân các lời lẽ đều không quan trọng. Vô niệm là trạng thái ý thức không có suy nghĩ.
Nó còn bao gồm các xúc cảm cũng như tất cả các khuôn mẫu phản ứng tâm trí – xúc cảm một cách bất thức nữa. Bạn không cần đến chúng đem lại cho bạn cảm nhận về cái tôi của mình. Dường như hầu hết mọi người đều cần phải trải nghiệm vô vàn khổ đau, thì họ mới buông bỏ được sự phản kháng để chấp nhận cái đang là – lúc ấy họ mới có lòng khoan dung.
Tình hình này hàm ý rằng bạn cũng hoàn toàn chấp nhận cái đang là, bởi vì bạn không thể quan tâm triệt để đến một thứ gì đó mà đồng thời lại phản kháng nó. Một khi cái quầng chứa nhóm đau khổ đã chế ngự được bạn rồi, bạn sẽ muốn có thêm đau khổ. Nữ giới đang giành lại chức năng vốn thuộc quyền thừa kế của họ, và do đó thuộc về họ một cách tự nhiên hơn là thuộc về nam giới: làm chiếc cầu nối giữa thế giới thị hiện và cõi Bất thị hiện, giữa vật chất và tinh thần.
Đây là phép lạ của sự vâng phục. Tôi tin rằng trong những năm sắp tới nhiều phụ nữ sẽ tiến đến trạng thái tỏ ngộ hoàn toàn vào thời điểm ấy. Đó là sự hiện trú tuy tĩnh lặng mà mãnh liệt; nó giải trừ các khuôn mẫu vô minh của tâm trí.
Nhưng đó vẫn là một vật tượng trưng và là một khái niệm, có lẽ tạm thời hữu ích, giống như một tấm bản đồ hay một tấm biển chỉ đường tạm thời có ích; nhưng lại là vật gây trở ngại hơn là hữu thức khi bạn đã sẵn sàng để nhận ra thực tại vượt quá tất cả cái khái niệm và hình ảnh. Sự cứu rỗi được cảm nhận không phải như là một kinh nghiệm thoáng qua mà là sự hiện trú vĩnh cửu. Một khi đã biết rõ cách thức hoạt động của sai lệch căn bản, bạn sẽ không còn cần phải khám phá vô số các biểu hiện của nó nữa, không còn cần phải biến nó thành vấn đề phức tạp của mình nữa.
Còn ở bình diện sâu xa hơn bạn vốn đã toàn vẹn rồi, và khi bạn nhận ra điều đó, thì niềm vui dâng đầy phía sau việc bạn làm. Bằng cách này, sẽ không có tình trạng tích lũy “thời gian tâm lý”, tức là không còn đồng hóa với quá khứ và cưỡng bách không ngừng phóng chiếu vào tương lai nữa. Để đồng cảm sâu sắc với đau khổ của người khác chắc chắn phải cần đến ý thức tỏ ngộ cao độ; nhưng sự đồng cảm chỉ tượng trưng cho một phương diện duy nhất của lòng trắc ẩn mà thôi.
Nó không xảy ra cho đến khi nỗi buồn hòa làm một với niềm vui, niềm vui của Bản thể hiện tiền vượt lên trên hình tướng, niềm vui của sự sống vĩnh hằng. Cái mà bạn xem là tương lai vốn chỉ là một phần bên trong trạng thái ý thức hiện giờ của bạn. Cho nên, đừng tìm cách giải thoát khỏi dục vọng hay “đạt đến” giác ngộ.
Bà ấy cũng đồng hóa với một điều kiện: đó là dung mạo bên ngoài. Tri kiến về chiều kích bất tử này, tức bản tính đích thật của bạn, là phương diện kia của lòng trắc ẩn. Đây chẳng phải là sự thực sao?
Đức Phật xem bản chất này là điểm cốt tủy trong giáo lý của ngài. Bạn đang gây ra bất hạnh, xung đột giữa nội tâm và ngoại giới. Một số câu hỏi đáp được viết lại hầu như nguyên văn.
Thế nhưng, không có gì bảo đảm tuyệt đối rằng con người sẽ thành công. Nó sẽ không lắng dịu đi cho đến khi cả hai cái quầng đau khổ tự đong đầy, và sau đó tiến vào giai đoạn ngủ vùi. Bằng biểu tượng ngài đã cố gắng truyền đạt bí quyết không phản kháng và không phản ứng.